Theo ucdavis.edu, ibuprofen là một loại thuốc giảm đau rẻ t.iền phổ biến được sử dụng để giảm đau, sốt và các tình trạng khó chịu khác.
Tác dụng phụ của thuốc giảm đau ibuprofen đối với gan nghiêm trọng hơn nhiều so với dự kiến trước đây – Ảnh: Getty Images
Các nhà khoa học Mỹ đã phát hiện ra rằng tác dụng phụ của thuốc đối với gan nghiêm trọng hơn nhiều so với trước đây. Và ở đàn ông, tác dụng phụ có thể nặng nề hơn.
Các nhà nghiên cứu kêu gọi không sử dụng ibuprofen khi không thật sự cần thiết. Ibuprofen thuộc loại thuốc chống viêm không steroid và được sử dụng rộng rãi để chống đau, sốt, viêm.
Thuốc có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng, được mô tả trong hướng dẫn, nhưng nhiều trong số chúng được chỉ định với hai từ “hiếm khi”. Các nhà nghiên cứu Mỹ ở Đại học California đã quyết định nghiên cứu tác dụng phụ của ibuprofen ở gan một cách chi tiết hơn và đưa ra kết luận đáng thất vọng.
Người ta biết rằng ibuprofen có thể gây ra các vấn đề với hệ thống tim mạch và làm tăng nguy cơ đột quỵ, nhưng tác dụng của thuốc đối với gan chưa được nghiên cứu kỹ, – giáo sư Aldrin Gomez, tác giả của công trình nghiên cứu nêu rõ.
Nhóm của ông đã tiến hành thí nghiệm trên các mô hình chuột và hàng ngày đã cho chúng một liều thuốc, đối với con người tương đương với 400 mg mỗi ngày. Sau đó, họ đã sử dụng phép quang phổ khối để phân tích tất cả các con đường trao đổi chất trong các tế bào gan.
Kết quả, Ibuprofen gây ra nhiều thay đổi hơn trong biểu hiện protein ở gan so với dự kiến. Tác động của ibuprofen dẫn đến những thay đổi trong hoạt động của hơn 300 protein. Ít nhất 34 con đường trao đổi chất ở chuột đực bị suy yếu. Trong số đó có những con đường liên quan đến quá trình chuyển hóa axit amin, vitamin, hormone.
Đáng chú ý là ở nam và nữ tác dụng của thuốc là khác nhau. Ví dụ, proteasome, một hệ thống xử lý chất thải tế bào, hoạt động khác nhau. Chẳng hạn, ở nữ giới, thuốc làm tăng hoạt động của cytochrom P450, chịu trách nhiệm cho sự phân giải của thuốc trong cơ thể. Ở nam giới, hoạt tính đó trái lại, đã bị giảm.
Theo các tác giả của công trình nghiên cứu, điều này có nghĩa là các loại thuốc khác dùng với ibuprofen có thể tồn tại lâu hơn trong cơ thể của nam giới. Thuốc giảm đau tiêu chuẩn chỉ tạm thời đối phó với cơn đau mạn tính.
Vũ Trung Hương (mothegioi.vn)
Những thuốc dễ gây bất lợi cho người bệnh tim mạch
Suy tim là tình trạng tim không cung cấp đủ lượng m.áu đáp ứng nhu cầu hoạt động của não, gan, thận và các cơ quan khác. Bệnh có thể diễn tiến từ nhẹ đến nặng. Một vài loại thuốc có thể làm trầm trọng thêm tình trạng này…
Các thuốc giảm đau, chống viêm không steroid (NSAID)
Các thuốc giảm đau NSAID có thể ức chế cả hai dạng đồng phân của enzym cyclooxygenase (COX) là COX-1 và COX-2. Có sự gia tăng nguy cơ tim mạch do sử dụng NSAID, đặc biệt là nhóm NSAID ức chế chọn lọc COX-2 như celecoxib. Ngay cả khi dùng thuốc trong thời gian ngắn cũng có thể làm tăng huyết áp và làm giảm tác dụng của các thuốc điều trị tăng huyết áp. Nhiều loại thuốc trị ho, cảm lạnh mua không cần đơn (thuốc OTC) có thể chứa NSAID. Bằng chứng hiện tại cho thấy rằng naproxen – một NSAID ức chế không chọn lọc, là thuốc có nguy cơ gây biến cố tim mạch thấp nhất. Do đó, naproxen là NSAID được lựa chọn ở những bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao.
Thuốc trị đái tháo đường
Rosiglitazone và pioglitazone là 2 ví dụ phổ biến của thuốc điều trị đái tháo đường, làm giữ nước ở mức độ nguy hiểm ở những bệnh nhân suy tim từ trung bình đến nặng.
Rosiglitazone được đưa vào sử dụng từ năm 1999, nhưng đến năm 2010, sau một loạt các bằng chứng lâm sàng có hại trên tim mạch, việc sử dụng thuốc đã bị hạn chế ở nhiều nước. Vào tháng 6/2013, sau thử nghiệm lâm sàng lớn, Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã kết luận rằng rosiglitazone không làm tăng tác dụng phụ trên tim mạch. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc hiện nay vẫn còn bị hạn chế.
Mặc dù, việc sử dụng pioglitazone đã cho thấy những cải thiện đáng kể về nồng độ glucose m.áu cơ tim và lưu lượng m.áu của cơ tim nhưng thuốc lại có liên quan đến việc tăng tỷ lệ phần trăm và tăng lượng chất ức chế suy tim xung huyết ở một số bệnh nhân.
Một số thuốc có thể gây bất lợi với người bệnh tim mạch.
Liệu pháp thay thế hormon và thuốc tránh thai đường uống
Cả hai loại thuốc này đều làm tăng huyết áp. Các viên thuốc tránh thai hỗn hợp estrogen và progesteron có khuynh hướng làm tăng huyết áp. Cơ chế gây tăng huyết áp của thuốc tránh thai còn chưa được biết rõ. Viên thuốc tránh thai chỉ chứa progesteron thì không gây tăng huyết áp.
Các chất kích thích
Các thuốc hướng tâm thần được sử dụng trong điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) thuộc nhóm thuốc kích thích, bao gồm amphetamin và methylphenidate. Những loại thuốc này thường làm tăng huyết áp và tăng nhịp tim.
Hóa trị liệu
Doxorubicin là một trong số những thuốc hóa trị liệu ung thư có hiệu quả nhất, nhưng thuốc có thể phá hủy tế bào cơ tim. Điều trị bằng những thuốc này với liệu trình dài hạn ở mức liều thấp có thể an toàn hơn với nhiều bệnh nhân.
Thuốc điều trị trầm cảm
Điều trị trầm cảm ở những bệnh nhân có vấn đề về tim mạch là điều cực kì quan trọng. Nhưng, nếu bạn mắc suy tim, thì việc điều trị này cần được tiến hành cẩn thận.
Tăng huyết áp có thể là hậu quả của việc ức chế tái hấp thu noradrenalin của thuốc, chẳng hạn như venlafaxine. Các thuốc chống trầm cảm ba vòng như amitriptylin cũng có thể làm tăng nhịp tim.
Huyết áp cao hơn và nhịp tim bất thường có thể là hậu quả của việc phối hợp các thuốc ức chế monoamine oxidase (IMAOs), như phenelzin với phô-mai, rượu vang và dưa chua.
Các loại thuốc gây nghiện
Cocain và metamphetamin có thể gây ra một cơn tăng huyết áp và tăng nhịp tim đột ngột. Cocain cũng có thể làm hẹp các buồng bơm ở tim và là một trong những tác nhân gây bệnh cơ tim giãn.
Những thuốc khác
Những thuốc khác như sildenafil (viagra) thường được kê đơn trong điều trị rối l.oạn c.ương d.ương, không chỉ an toàn mà còn thể hiện lợi ích ở một vài bệnh nhân suy tim, ở cả nam và nữ. Bằng cách tăng lưu lượng m.áu đến tim, thuốc làm tăng tốc độ phục hồi và tăng khả năng tập thể dục, cùng với khả năng tận hưởng t.ình d.ục. Vì sildenafil có thể tương tác bất lợi với một số thuốc khác mà người bệnh tim mạch có thể đang dùng, nên việc sử dụng cần được giám sát bởi bác sĩ.
Với những cảnh báo này, những người mắc bệnh tim mạch cần thận trọng khi dùng thuốc (kê đơn và không kê đơn). Cần trao đổi và hỏi ý kiến bác sĩ để có một liệu trình điều trị tối ưu, nâng cao hiệu quả và hạn chế những biến cố bất lợi có thể gặp của thuốc.
DS. Thảo Đan
Theo suckhoedoisong